Trong suốt ca phẫu thuật, bệnh nhân kêu gào liên tục và do quá đau đớn, nhiều lúc ngất đi. Đôi lúc bệnh nhân từ chối phẫu thuật không gây mê nhưng sau khi hiểu ra vấn đề, anh ta biết rằng không có lựa chọn nào khác. Trên cơ thể Võ Hoàng Lê hằn những vết thương của một người lính chiến. Ông đã bị thương tới 6 lần trong 43 năm binh nghiệp, trong đó có hai lần thời chống Pháp và bốn lần thời chống Mỹ. Đối với ông, năm 1967 không phải là một năm may mắn. Trong một trận không kích, ông bị bom napalm làm chảy phỏng khuỷu tay phải. Sau đó, trong một trận tấn công mặt đất, ông bị mảnh đạn phóng lựu M-79 văng trúng phần trên cánh tay trái. Rồi trong một trận pháo kích, ông bị găm vài mảnh vào lưng do quả đạn nổ quá gần. Nhưng vết thương khủng khiếp nhất đối với ông Võ Hoàng Lê vào năm sau đó. Một quả đạn từ khẩu súng máy M-60 đã xuyên trúng tay ông, cắt đứt một phần bàn tay và ngón út. Khi tới nơi chữa trị, người y tá ngần ngại trong việc cắt phần dưới bàn tay đang đu đưa của ông. Thế là ông lôi con dao từ trong túi ra, không cần thuốc gây tê, cắt đứt phần tay vốn đã trở thành vô dụng.
Giành giật sự sống từ lòng đất
Nhân vật Võ Hoàng Lê nói trên không phải là một người lính bộ binh nơi tiền tuyến, ông là một bác sĩ chuyên ngành phẫu thuật. Ông đã trả lời phỏng vấn cựu trung tá thủy quân lục chiến Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, James G.Zumwalt, trong cuốn sách “Chân trần chí thép”. Tác giả gọi ông là “bác sĩ đau đớn”.
Suốt 15 năm hoạt động ở miền Nam, bác sĩ Võ Hoàng Lê chủ yếu làm việc ở Củ Chi. Chiến dịch rải thảm chất độc dioxin được người Mỹ ráo riết thực hiện nơi đây đã buộc bệnh viện của ông phải chuyển vào lòng đất. Ông kể:
“Chúng tôi khoét các phòng cách mặt đất khoảng 3-4m rồi lắp xà đỡ và tấm trần, sau đó dùng đất lấp lại và ngụy trang bằng cây bụi. Các phần của bệnh viện được nối với nhau bằng đường hầm…. Phòng mổ đủ rộng để chứa một bác sĩ, một trợ lý, thiết bị phẫu thuật, bác sĩ gây mê và y tá.
Đôi khi, đối với những cuộc đại phẫu như mổ dạ dày, chúng tôi cần hai trợ lý nên có cả thảy sáu người trong phòng. Máy phát cung cấp điện chiếu sáng để mổ nhưng trong trường hợp tiếng máy nổ có thể làm lộ bí mật, chúng tôi dùng đèn pin gắn trên mũ để phẫu thuật.
Chúng tôi thường không có thuốc gây mê. Khi đó, chúng tôi dùng thuốc Novocain (thuốc gây tê tại chỗ dùng trong nha khoa) đối với tiểu phẫu; với các ca phẫu thuật lớn, chúng tôi tiêm Novocain vào xương sống hoặc tĩnh mạch của tủy sống. Bệnh nhân vẫn thức nhưng không có cảm giác gì hết.
Tuy nhiên, ngay cả Novocain cũng thiếu và chúng tôi buộc phải pha loãng. Khi điều này xảy ra, tôi thông báo trước với bệnh nhân rằng hiện chỉ có đủ Novocain để gây tê đối với các cơ quan nội tạng, không đủ để gây tê trên da nơi chúng tôi thực hiện vết rạch đầu tiên. Mổ dạ dày được tiến hành như thế.
Trong nhiều ca, chúng tôi thiếu cả thuốc gây mê lẫn Novocain, nhưng do tình trạng khẩn cấp của bệnh nhân mà không thể trì hoãn việc phẫu thuật. Một người lính có thể đang bị thương nặng và vết thương đang hoại tử trầm trọng, dần thối rữa và cần phải cưa một chi ngay lập tức mà không có bất kỳ loại thuốc gây tê nào.
Sau khi thông báo, chúng tôi giải thích thêm rằng nếu không phẫu thuật ngay thì nhiễm trùng sẽ lan rộng và có thể chết. Đó là việc làm cực kỳ khó cho cả bác sĩ lẫn bệnh nhân, nhưng không có lựa chọn nào khác, chúng tôi buộc phải thực hiện thôi.
Nếu phải cưa một tay, chúng tôi buộc con quay cầm máu ngay trên chỗ sẽ cưa rồi dùng dao cắt thịt ở tay. Sau khi cắt đến tới xương, chúng tôi dùng cưa. Chúng tôi cố gắng hoàn tất việc cắt tay trong vòng 15 phút. Trong suốt ca phẫu thuật, bệnh nhân kêu gào liên tục và do quá đau đớn, nhiều lúc ngất đi. Đôi lúc bệnh nhân từ chối phẫu thuật không gây mê nhưng sau khi hiểu ra vấn đề, anh ta biết rằng không có lựa chọn nào khác. Đó là một cuộc vật lộn giữa sự sống và cái chết”.
